ĐIỀU TÂM TRONG KHI AN DƯỠNG
Phong Lan sưu tập
I. Nét chung :
Phép điều tâm là một trong hai liệu pháp chính được áp dụng tại Khu Điều Dưỡng –PG.Nội dung của phép này thì “Như Lai Thanh Tịnh Thiền “ và “ Liên Hoa Tọa Thiền Công “ do Hòa Thương Thích Giác Ngộ khởi xướng áp dụng là hai liệu pháp thư giãn chính giúp cho hành giả trong Khu Điều Dưỡng tự mình giải phóng khỏi những bế tắc tâm Lý, những sang chấn tinh thần ( Stress ) mắc phải trong quá trình sống giữa đời thường.
“Chỉ có sự tỉnh giác ( là giác ngộ.), và hành giả phải buông bỏ hết mọi sự suy tư, tính toán lo lường,để tâm hoàn toàn rỗng không thanh tịnh .
Thiền chính là chỗ trở về với tánh không. “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
Chúng tôi xem trọng phép điều tâm này kết hợp với phaáp điều thân .Thân tâm mạnh mẽ cơ thể sẽ khỏe mạnh , và đầu óc sẽ minh mẫn . Cuộc sống đối với hành giả sẽ trở nên có ý nghĩa và cảm nhận hạnh phúc an lạc tư tại cho bản thân tốt hơn .
II. Tìm hiểu Pháp Thiền “Sổ Tức quán”:
Thiền định là một pháp môn trong Tam vô lậu học mà đức Phật đã dạy. Ai muốn diệt trừ được vô minh phiền não, giải thoát ra khỏi luân hồi sanh tử khổ, chứng được Thánh vị thì cần phải tu thiền định.
Thiền là thấy biết rõ ràng, không mê mờ, vô minh.
Định là tĩnh tâm yên lặng, không vọng loạn.
Thiền định là phương pháp tập trung tư tưởng để cho tâm được yên lặng, trí tuệ sáng suốt, thấy rõ được chân tâm, hiểu thấu chân lý, đạt được sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Có ba việc căn bản là : điều thân, điều tức và điều tâm.
1. Điều thân là điều dưỡng thân thể khỏe mạnh.
2. Điều tức là làm cho hơi thở thông thoáng điều hòa.
3. Điều tâm là giữ tâm thường an trú trong chánh niệm, không lo âu, sợ sệt, buồn rầu hay chán nản, không suy nghĩ buông lung trong 4 oai nghi, đi đứng nằm ngồi đều nhiếp tâm tỉnh giác, kể cả hơi thở vô và hơi thở ra…
III. Thực Hành Thiền Sổ Tức Quán :
Khi tọa thiền thực hành pháp Số tức quán, chúng ta sẽ làm như sau:
A. Đầu tiên : vận động cơ thể cho khí huyết điều hòa, tinh thần thoải mái
đứng những nơi có không khí trong lành, thư giãn thân tâm, hít thở vài
mươi hơi sâu dài thông thoáng
B. Sau đó, ta chọn nơi thích hợp để an tọa. ngồi kiết già; hay bán già cũng được. Lưng thẳng, đầu ngay, miệng ngậm, răng khít, lưỡi trải ra cho đầu lưỡi vừa đụng nướu răng trên. Mắt vừa khép mi, nhìn vào trong, tai nghe vào trong, tâm theo dõi hơi thở. Hai bàn tay đặt trên hai cổ chân bàn tọa…
C. Ngồi yên lặng tập trung tư tưởng vào hơi thở, hít thở 3 hơi đầu:
Hơi thứ nhất: hít vô thật đầy, thở ra thật hết để súc sạch buồng phổi.
Hơi thứ hai: hít vô thật đầy rồi nén lại, đến khi không chịu nổi nữa thì thở ra từ từ cho thật hết.
Hơi thứ ba: hít vô thật đầy rồi nén lại, đến khi không chịu nổi nữa thì thở ra tự nhiên, không cần ra hết.
Xong ngồi thản nhiên, buông xả hết các duyên, tâm vắng lặng rỗng không, vào định.
Tâm không vạn sự đều không
Tâm chơn vạn pháp thảy đồng quy chơn.
Ba hơi thở này có tác dụng mạnh mẽ phi thường với người tu thiền:
Có khả năng đoạn diệt vọng tưởng.
Phá được hôn trầm rã rượi.
Toàn thân nóng ấm lên, buồng phổi căng tròn, chứa đầy khí lực, bá mạch được lưu thông, các lỗ chân lông đều thông hết. Thân được khinh an, tâm được ổn định, trí được sáng suốt .
D. Pháp Sổ Tức :
1. Pháp chuyển tức: Tập trung tư tưởng vào ấn đường, tức giữa hai chân mày. Hít hơi vào, niệm “Nam”; đưa tư tưởng xuống giữa lồng ngực, niệm “Mô”; tiếp tục đưa hơi thở xuống đan điền, dưới rốn ba phân, niệm “A”. Tại đây, bắt đầu thở ra, niệm “Di”, chuyển tư tưởng trở lên giữa lồng ngực, niệm “Đà”, rồi chuyển lên lại giữa minh đường, niệm “Phật”.
Xong mỗi hơi thở là đếm một. Cứ đếm số từ 1 đến 10 không cho quên hay nhầm, nếu quên hay nhầm, hãy đếm lại từ đầu. Đây là phương pháp chế ngự vọng tưởng mạnh mẽ của con người rất hữu hiệu. Do hít thở sâu dài mà khí lực được dồi dào. bá mạch được lưu thông. hôn trầm tan biến, vọng tưởng bị diệt trừ, tâm định tĩnh.
2. Pháp điều tức: Khi đã đủ, tư tưởng đã được tập trung, ta chuyển qua điều tức. Bây giờ làm cho hơi thở nhẹ nhàng lại. Ta thở một cách tự nhiên và đưa tư tưởng tập trung nơi đan điền ( dưới rốn 3cm). Hít hơi vô, niệm “Nam Mô A”, thở ra niệm “Di Đà Phật”. Không cần đếm. Khi nào không muốn niệm nữa ta buông xả, vô niệm, để tâm nhập vào Sơ thiền – Ly sanh hỷ lạc. Lúc này, ta chỉ tập trung tư tưởng một cách an nhiên, thư thái.
3. Pháp diệt tức: Hơi thở lúc này từ từ nhẹ dần, cho đến khi ta không còn thấy thở. Lúc bấy giờ các lỗ chân lông đều mở ra thở tiếp, toàn thân mát lạnh. Nghe trong mũi có mùi thơm mát, cổ họng cũng thơm mát với nước miếng ngọt ngời. Toàn thân dường như bay bổng trên hư không. Đạt được cảnh giới này gọi là ấn chứng thiền. Ta nhập vào Nhị thiền – Định sanh hỷ lạc. Ai có tu chứng mới biết sự hỷ lạc của thiền vị, vô cùng nhiệm mầu không thể diễn tả được, như người uống nước cam lồ, ngon ngọt tự mình hoan hỷ vậy…
4. Hãy buông xả mọi cảm giác hỷ lạc vui mừng ấy, nhiếp tâm vào định. Định càng sâu thì sự mầu nhiệm chứng ngộ càng nhiều hơn. Ta đang ngồi an định, nhưng trước mặt ta những cảnh quan kỳ diệu, tuyệt vời lại hiện ra mà ta chưa bao giờ từng thấy biết! Lúc bấy giờ ta đã nhập vào Tam thiền – Ly hỷ diệu lạc, niềm vui mầu nhiệm bên trong hiện ra rất huyền bí.
5. Mặc dầu ta đã đạt được cái diệu lạc ấy, nhưng hãy buông xả, đừng chạy theo cảnh, có thể bị ma dẫn vào ma lộ không tốt. Bây giờ định tâm đã sâu, cảnh giới thân tâm hoàn toàn vắng lặng như một giấc ngủ ngon, chỉ còn tri giác, ta đã nhập vào Tứ thiền – Xả niệm thanh tịnh.
6. Từ Tứ thiền, ta có thể vượt lên Tứ không định, nhưng nguy hiểm. An trú trong Tứ thiền, ta chỉ chiêm nghiệm cho biết chứ không nên an trú lâu. Vì Tứ thiền có định mà không có tuệ. Hãy chuyển tâm sang Ngũ thiền là Định xả.Định xả là xả Tứ thiền nhưng giữ tâm an định, không loạn. Bấy giờ, dùng tuệ giác chiếu soi vào bản thể tự tánh để được minh tâm kiến tánh. Hễ tâm thấy được tự tánh là giác ngộ, có giác ngộ mới được giải thoát.
IV. Kết Luận :
Đức Phật Thích Ca cũng đã thực hành pháp Số tức quán và từ căn bản đó Ngài đã thành tựu được đạo quả Vô thượng Bồ-đề, khai sáng ra Phật giáo và truyền thừa cho đến ngày nay. Chúng ta nối truyền theo Thích-ca Chánh pháp chính là đi theo con đường mà đức Phật đã đi vậy.
Khu Điều Dưỡng Phật Giáo sẽ là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng nếu như hành giả thích hành thiền và muốn minh tâm kiến tánh, an lạc và giải thoát.
Phong Lan sưu tập
I. Nét chung :
Phép điều tâm là một trong hai liệu pháp chính được áp dụng tại Khu Điều Dưỡng –PG.Nội dung của phép này thì “Như Lai Thanh Tịnh Thiền “ và “ Liên Hoa Tọa Thiền Công “ do Hòa Thương Thích Giác Ngộ khởi xướng áp dụng là hai liệu pháp thư giãn chính giúp cho hành giả trong Khu Điều Dưỡng tự mình giải phóng khỏi những bế tắc tâm Lý, những sang chấn tinh thần ( Stress ) mắc phải trong quá trình sống giữa đời thường.
“Chỉ có sự tỉnh giác ( là giác ngộ.), và hành giả phải buông bỏ hết mọi sự suy tư, tính toán lo lường,để tâm hoàn toàn rỗng không thanh tịnh .
Thiền chính là chỗ trở về với tánh không. “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
Huyền diệu thay Tánh Không thiền
Động tịnh, nói làm vẫn như nhiên
Bình tâm vô niệm trong hơi thở
Đi, đứng, nằm, ngồi vẫn lặng yên!
Pháp Thiền tánh Không, qua việc hành trì Sổ tức quán là pháp giản tiện và dễ hành trì đối với mọi hành giả đi từ thấp lên cao thành tựu và đắc được quả vị.
Trong quá trình nghỉ dưỡng hành giả sẽ thực hành pháp này đều đặn mỗi ngày .Chúng tôi xem trọng phép điều tâm này kết hợp với phaáp điều thân .Thân tâm mạnh mẽ cơ thể sẽ khỏe mạnh , và đầu óc sẽ minh mẫn . Cuộc sống đối với hành giả sẽ trở nên có ý nghĩa và cảm nhận hạnh phúc an lạc tư tại cho bản thân tốt hơn .
II. Tìm hiểu Pháp Thiền “Sổ Tức quán”:
Thiền định là một pháp môn trong Tam vô lậu học mà đức Phật đã dạy. Ai muốn diệt trừ được vô minh phiền não, giải thoát ra khỏi luân hồi sanh tử khổ, chứng được Thánh vị thì cần phải tu thiền định.
Thiền là thấy biết rõ ràng, không mê mờ, vô minh.
Định là tĩnh tâm yên lặng, không vọng loạn.
Thiền định là phương pháp tập trung tư tưởng để cho tâm được yên lặng, trí tuệ sáng suốt, thấy rõ được chân tâm, hiểu thấu chân lý, đạt được sự giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Có ba việc căn bản là : điều thân, điều tức và điều tâm.
1. Điều thân là điều dưỡng thân thể khỏe mạnh.
2. Điều tức là làm cho hơi thở thông thoáng điều hòa.
3. Điều tâm là giữ tâm thường an trú trong chánh niệm, không lo âu, sợ sệt, buồn rầu hay chán nản, không suy nghĩ buông lung trong 4 oai nghi, đi đứng nằm ngồi đều nhiếp tâm tỉnh giác, kể cả hơi thở vô và hơi thở ra…
III. Thực Hành Thiền Sổ Tức Quán :
Khi tọa thiền thực hành pháp Số tức quán, chúng ta sẽ làm như sau:
A. Đầu tiên : vận động cơ thể cho khí huyết điều hòa, tinh thần thoải mái
đứng những nơi có không khí trong lành, thư giãn thân tâm, hít thở vài
mươi hơi sâu dài thông thoáng
B. Sau đó, ta chọn nơi thích hợp để an tọa. ngồi kiết già; hay bán già cũng được. Lưng thẳng, đầu ngay, miệng ngậm, răng khít, lưỡi trải ra cho đầu lưỡi vừa đụng nướu răng trên. Mắt vừa khép mi, nhìn vào trong, tai nghe vào trong, tâm theo dõi hơi thở. Hai bàn tay đặt trên hai cổ chân bàn tọa…
C. Ngồi yên lặng tập trung tư tưởng vào hơi thở, hít thở 3 hơi đầu:
Hơi thứ nhất: hít vô thật đầy, thở ra thật hết để súc sạch buồng phổi.
Hơi thứ hai: hít vô thật đầy rồi nén lại, đến khi không chịu nổi nữa thì thở ra từ từ cho thật hết.
Hơi thứ ba: hít vô thật đầy rồi nén lại, đến khi không chịu nổi nữa thì thở ra tự nhiên, không cần ra hết.
Xong ngồi thản nhiên, buông xả hết các duyên, tâm vắng lặng rỗng không, vào định.
Tâm không vạn sự đều không
Tâm chơn vạn pháp thảy đồng quy chơn.
Ba hơi thở này có tác dụng mạnh mẽ phi thường với người tu thiền:
Có khả năng đoạn diệt vọng tưởng.
Phá được hôn trầm rã rượi.
Toàn thân nóng ấm lên, buồng phổi căng tròn, chứa đầy khí lực, bá mạch được lưu thông, các lỗ chân lông đều thông hết. Thân được khinh an, tâm được ổn định, trí được sáng suốt .
D. Pháp Sổ Tức :
1. Pháp chuyển tức: Tập trung tư tưởng vào ấn đường, tức giữa hai chân mày. Hít hơi vào, niệm “Nam”; đưa tư tưởng xuống giữa lồng ngực, niệm “Mô”; tiếp tục đưa hơi thở xuống đan điền, dưới rốn ba phân, niệm “A”. Tại đây, bắt đầu thở ra, niệm “Di”, chuyển tư tưởng trở lên giữa lồng ngực, niệm “Đà”, rồi chuyển lên lại giữa minh đường, niệm “Phật”.
Xong mỗi hơi thở là đếm một. Cứ đếm số từ 1 đến 10 không cho quên hay nhầm, nếu quên hay nhầm, hãy đếm lại từ đầu. Đây là phương pháp chế ngự vọng tưởng mạnh mẽ của con người rất hữu hiệu. Do hít thở sâu dài mà khí lực được dồi dào. bá mạch được lưu thông. hôn trầm tan biến, vọng tưởng bị diệt trừ, tâm định tĩnh.
2. Pháp điều tức: Khi đã đủ, tư tưởng đã được tập trung, ta chuyển qua điều tức. Bây giờ làm cho hơi thở nhẹ nhàng lại. Ta thở một cách tự nhiên và đưa tư tưởng tập trung nơi đan điền ( dưới rốn 3cm). Hít hơi vô, niệm “Nam Mô A”, thở ra niệm “Di Đà Phật”. Không cần đếm. Khi nào không muốn niệm nữa ta buông xả, vô niệm, để tâm nhập vào Sơ thiền – Ly sanh hỷ lạc. Lúc này, ta chỉ tập trung tư tưởng một cách an nhiên, thư thái.
3. Pháp diệt tức: Hơi thở lúc này từ từ nhẹ dần, cho đến khi ta không còn thấy thở. Lúc bấy giờ các lỗ chân lông đều mở ra thở tiếp, toàn thân mát lạnh. Nghe trong mũi có mùi thơm mát, cổ họng cũng thơm mát với nước miếng ngọt ngời. Toàn thân dường như bay bổng trên hư không. Đạt được cảnh giới này gọi là ấn chứng thiền. Ta nhập vào Nhị thiền – Định sanh hỷ lạc. Ai có tu chứng mới biết sự hỷ lạc của thiền vị, vô cùng nhiệm mầu không thể diễn tả được, như người uống nước cam lồ, ngon ngọt tự mình hoan hỷ vậy…
4. Hãy buông xả mọi cảm giác hỷ lạc vui mừng ấy, nhiếp tâm vào định. Định càng sâu thì sự mầu nhiệm chứng ngộ càng nhiều hơn. Ta đang ngồi an định, nhưng trước mặt ta những cảnh quan kỳ diệu, tuyệt vời lại hiện ra mà ta chưa bao giờ từng thấy biết! Lúc bấy giờ ta đã nhập vào Tam thiền – Ly hỷ diệu lạc, niềm vui mầu nhiệm bên trong hiện ra rất huyền bí.
5. Mặc dầu ta đã đạt được cái diệu lạc ấy, nhưng hãy buông xả, đừng chạy theo cảnh, có thể bị ma dẫn vào ma lộ không tốt. Bây giờ định tâm đã sâu, cảnh giới thân tâm hoàn toàn vắng lặng như một giấc ngủ ngon, chỉ còn tri giác, ta đã nhập vào Tứ thiền – Xả niệm thanh tịnh.
6. Từ Tứ thiền, ta có thể vượt lên Tứ không định, nhưng nguy hiểm. An trú trong Tứ thiền, ta chỉ chiêm nghiệm cho biết chứ không nên an trú lâu. Vì Tứ thiền có định mà không có tuệ. Hãy chuyển tâm sang Ngũ thiền là Định xả.Định xả là xả Tứ thiền nhưng giữ tâm an định, không loạn. Bấy giờ, dùng tuệ giác chiếu soi vào bản thể tự tánh để được minh tâm kiến tánh. Hễ tâm thấy được tự tánh là giác ngộ, có giác ngộ mới được giải thoát.
IV. Kết Luận :
Đức Phật Thích Ca cũng đã thực hành pháp Số tức quán và từ căn bản đó Ngài đã thành tựu được đạo quả Vô thượng Bồ-đề, khai sáng ra Phật giáo và truyền thừa cho đến ngày nay. Chúng ta nối truyền theo Thích-ca Chánh pháp chính là đi theo con đường mà đức Phật đã đi vậy.
Khu Điều Dưỡng Phật Giáo sẽ là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng nếu như hành giả thích hành thiền và muốn minh tâm kiến tánh, an lạc và giải thoát.
This entry was posted
on 26 tháng 5, 2006
at 18:25
and is filed under
tư liệu
. You can follow any responses to this entry through the
comments feed
.