Chơn Minh sưu tầm &biên dịch
Mọi người trong chúng ta đều muốn sống một cách an lạc và hạnh phúc. Tuy nhiên, ai cũng có lúc bị phiền não, bực dọc ; và những lúc ấy, chẳng những bản thân mình bị bực bội, khổ sở mà cả những người chung quanh cũng có thể bị ảnh hưởng lây do những cử chỉ, lời nói thiếu hòa nhã của mình. Dĩ nhiên, không ai muốn vậy cả.
1. Thế nhưng tại sao chúng ta cứ tiếp tục bị bực bội, khó chịu, khổ sở…?
Vậy, vấn đề đặt ra là
2. CÓ CÁCH NÀO ÐỂ GIÚP CHO TA KHỎI BỊ PHIỀN NÃO HAY KHÔNG? LÀM SAO CHÚNG TA LUÔN GIỮ ÐƯỢC SỰ AN LẠC, TỰ TẠI VÀ HẠNH PHÚC?
Những bậc trí thức, hiền giả đã nghiên cứu về vấn đề trên, và theo quan điểm của họ thì giải pháp là:
Quan điểm 1: chuyển tâm trí ta qua một chuyện khác khi cơn phiền não bắt đầu nổi lên, tức là đánh lạc hướng tâm trí của mình ra khỏi điều đang gây phiền não.
Cách giải quyết này có hiệu quả, nhưng xét cho kỹ, nó chỉ là tạm bợ, chỉ là trốn tránh, chỉ ở mức độ ý thức (conscious) mà thôi. Thật ra, ta đã đè nén những sự phiền não ấy vào trong tiềm thức (subconscious) của mình, và chúng vẫn cứ ở đó, tiếp tục tăng trưởng theo thời gian. Bề ngoài thì có vẻ như ta đang an lạc, tự tại, nhưng về mặt vi tế, thâm sâu hơn của tiềm thức thì một ngọn núi lửa đầy những tâm niệm khổ sở, bực dọc, thèm khát…v.v. đang bị đè nén trong ta, chỉ chực chờ cơ hội được bùng nổ; và sớm hay muộn gì chúng cũng sẽ bộc phát mãnh liệt qua hành động, lời nói hay ý nghĩ của mình.
Vì bất cứ điều gì, càng bị đè nén, nó chẵng những không mất đi đâu hết mà càng trở nên mãnh liệt hơn!Do vậy trốn tránh , hoặc đánh lạc hướng tâm trí không phải là một giải pháp vẹn toàn
Quan điểm 2: Một số các vị hiền giả, thánh nhân khác đã đưa ra cách giải quyết thứ hai: “Ta phải trực diện đối mặt với chính cái phiền não của mình, bằng cách là theo dõi, quán sát nó một cách liên tục và khách quan, không để cho nó khống chế tâm trí ta”. Ta luôn luôn quán sát được cái phiền não trên tinh thần giữ vững sự quân bình và tỉnh thức (aware and equanimous), và trong suốt quá trình quán sát ấy ta sẽ thấy rằng nó từ từ yếu đi dần và cuối cùng mất hẳn, không thể nào chế ngự được ta vì Qui luật vô thường (impermanence) áp dụng cho tất cả mọi thứ trên thế gian. sự “phiền não” xảy đến rồi chỉ để mất đi, không thể nào trói buộc được tâm trí ta; sự an lạc, tự tại vẫn luôn được hiện hữu!” .
Trên lý thuyết, phương cách thứ hai này hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, trong thực tế khó có thể thực hành được vì một người bình thường khó có thể quán sát được cái phiền não của mình vì 2 lí do:
1.Người đó không cảm nhận được sự phát sinh của cái phiền não ngay từ lúc đầu.
Nó phát xuất từ thẳm sâu trong tiềm thức của mình .và khi họ cảm nhận được phiền não thì nó đã trở nên quá mãnh liệt , nó lấn áp, chiếm hữu, điều khiển tâm trí của người ấy không thể nào theo dõi, quán sát được nó như đã trình bày.
2.Khi có một phiền não nổi lên, tâm trí họ liền tập trung ngay vào cái đối tượng đã gây ra sự phiền não.
Ðây là một thực tế không thể phủ nhận, vì là một phản xạ tự nhiên mà hầu hết chúng ta ai cũng có. Thành ra, thay vì chỉ nên tập trung quán sát cái phiền não của mình, tâm trí thì người ấy lại đi “chỉa mủi dùi” vào cái nguyên do bên ngoài, vô tình làm tăng trưởng thêm chính cái phiền não ấy!
Sự phiền não luôn luôn đi đôi với nguyên nhân của nó. Trong “cặp bài trùng” này, một cái là trừu tượng - sự phiền não (giận dữ, khổ sở, thèm khát…v.v.); một cái là cụ thể, rõ ràng – nguyên nhân của sự phiền não (bị mất việc làm, bị vu oan, bị mất của…v.v.).
Do đó, đối với một người bình thường, tâm trí người ấy tất nhiên chỉ có khuynh hướng tập trung vào cái cụ thể, rõ ràng mà thôi, vì nó rành rành ngay trước mắt!
Như vậy, cả hai cách giải quyết trên đều có chổ bế tắc.
Đức Phật Gotama ,“ Đấng Giác Ngộ” (The Enlightened One). đã tìm ra một phương cách đầy hiệu dụng và đã chỉ dạy cùng hướng dẫn cho biết bao nhiêu người lúc bấy giờ. Ngài dạy là phải trực diện đối mặt với sự phiền não giống như phương cách thứ hai ở trên.Ngài đã khám phá ra rằng: giữa cái nguyên nhân gây ra phiền não và sự phiền não luôn luôn có thêm một yếu tố nữa cực kỳ quan trọng . Ðó là những CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể (physical sensations in the body ) .
(ví dụ: ngứa ngáy, nhột nhạt, tê buốt, nóng nực, rạo rực, lâng
lâng, nhẹ nhõm…v.v.)
lâng, nhẹ nhõm…v.v.)
- Những cảm giác TÂM LÝ
(ví dụ: tức giận, thương yêu, ghét bỏ, thèm khát, nhớ
nhung…v.v).
nhung…v.v).
- Mấu chốt của vấn đề chính là ở những cảm giác SINH LÝ, cho
nên đừng lẩn lộn với cảm giác tâm lý .
nên đừng lẩn lộn với cảm giác tâm lý .
- CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể luôn luôn đi đôi với sự
phiền não. Khi ta lo sợ (phiền não) thì bắt buộc tim ta phải
đập mạnh hơn bình thường (cảm giác sinh lý); và khi nhịp tim
trở lại bình thường thì ta cũng không còn lo sợ nữa.
phiền não. Khi ta lo sợ (phiền não) thì bắt buộc tim ta phải
đập mạnh hơn bình thường (cảm giác sinh lý); và khi nhịp tim
trở lại bình thường thì ta cũng không còn lo sợ nữa.
- Như vậy, nếu ta quán sát được những CẢM GIÁC SINH LÝ
tương ứng với một sự phiền não nào đó, thì rõ ràng là ta cũng
đang quán sát chính cái phiền não ấy một cách “gián tiếp”.Thật
là tuyệt vời! Ta không còn phải đối mặt trực tiếp với khía cạnh
TÂM LÝ mà thôi; ta đã có một đối tượng trung gian
tương ứng với một sự phiền não nào đó, thì rõ ràng là ta cũng
đang quán sát chính cái phiền não ấy một cách “gián tiếp”.Thật
là tuyệt vời! Ta không còn phải đối mặt trực tiếp với khía cạnh
TÂM LÝ mà thôi; ta đã có một đối tượng trung gian
- CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể - Ðặc điểm của đối tượng trung gian này là chúng hoàn toàn cụ thể, rõ ràng, không có một chút gì là trừu tượng; nên một người bình thường dễ có khả năng tập trung quán sát được nó hơn. Vai trò ấy được diễn tả một cách cô đọng, rốt ráo qua cái nguyên lý bất di bất dịch sau đây:“Cái yếu tố kích thích trực tiếp nhất, cho nên cũng là cốt lõi nhất để gây ra sự phiền não trong chúng ta chính là những CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể, chứ không phải là những tác động bên ngoài hay ý niệm trong đầu.”
Hãy lấy ví dụ minh họa cho dể hiểu:
1. Khi một người bị nghiện rượu, cái yếu tố kích thích để gây ra sự nghiện rượu này chính là những CẢM GIÁC SINH LÝ mang tính cách khoái lạc trong cơ thể của anh ta do chất rượu gây nên; tức là anh ta nghiện những cảm giác sinh lý khoái lạc này, chứ không phải là nghiện cái “rượu”!
2. Tương tự như thế, khi một điều trái ý xảy ra và ta nổi cơn bực dọc, thật ra ta đang bực dọc với chính những CẢM GIÁC SINH LÝ khó chịu trong cơ thể do điều trái ý gây ra, chứ không phải là bực dọc với điều trái ý ấy! Cùng một sự việc mà mổi người lại có mổi phản ứng khác nhau.
Ví dụ: cùng bị mắc kẹt trong một cầu thang máy nhưng người thì sợ hãi (vì người này nhát gan), người thì bực bội (vì đang vội công việc ) , người thì bàng quang phớt tỉnh (vì bất cần đời ...v.v)., nhưng đó chỉ là những yếu tố gián tiếp!
Cái mà trực tiếp nhất, cho nên cũng là cốt lõi nhất chính là những CẢM GIÁC SINH LÝ khác nhau đang nổi lên trong cơ thể của những người này, và chúng kích thích họ, khiến cho họ có những trạng thái tâm lý khác nhau.
Trước đây, ta chỉ biết nhìn ra ngoài, luôn luôn đổ lỗi, quy tội cho các yếu tố ngoại cảnh đã gây ra khổ đau, phiền não ; và loay hoay tìm cách sửa đổi chúng nhưng ta hoàn toàn u mê, mù mịt về cái thực tại nội tâm vì ta chưa bao giờ hiểu rằng nguyên do thật sự của khổ đau, phiền não nằm ở ngay trong ta, ở ngay cái sự vướng mắc của tâm trí với những CẢM GIÁC SINH LÝ mang tính cách khoái lạc (pleasant) làm tâm trí ta say đắm vào nó (craving); hoặc khó chịu (unpleasant) trong cơ thể làm ta chê ghét, bực tức, khổ sở vì nó … (aversion). .
Sự vướng mắc ấy cứ lập đi lập lại, chồng chất mãi lên nhau suốt cả cuộc đời!
Sự vướng mắc ấy cứ lập đi lập lại, chồng chất mãi lên nhau suốt cả cuộc đời!
Ta chỉ là nô lệ cho những CẢM GIÁC SINH LÝ ấy, làm sao mà thoát được phiền não, khổ đau?!
Một tâm trí không bị vướng mắc luôn luôn suy xét, quyết định, hành xử mọi sự việc trong sự trầm tỉnh, nhạy bén, sáng suốt và khôn ngoan (being pro-active is always better than re-active).
Hiểu được như trên, lẽ dĩ nhiên là ta phải tìm cách ngăn chận triệt để cái vướng mắc (craving/aversion) tai hại ấy; và phương cách hiệu quả nhất chính là: theo dõi, quán sát những CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể của ta một cách liên tục, sâu sắc và khách quan với một tâm trí đầy sự tỉnh thức (awareness) và quân bình (equanimity). Làm như vậy, chắc chắn ta sẽ đạt được những hiệu quả sau đây:
1. Thực chứng được cái bản chất VÔ THƯỜNG (impermanence)
của tất cả mọi CẢM GIÁC SINH LÝ. Càng thực hành bao nhiêu, sự thực chứng này càng sâu sắc bấy nhiêu; và tâm trí ta tự nhiên càng giảm bớt đi cái vướng mắc tai hại kia bấy nhiêu. và đến một thời điểm chín mùi, sự vướng mắc đó sẽ hoàn toàn hết hẳn; và phiền não vĩnh viễn không bao giờ tái hiện! Lúc ấy, tâm trí ta cũng hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh
Một tâm trí như thế luôn luôn
a.Tràn đầy sự tinh anh, sáng suốt; tràn đầy sự từ bi
(compassion) đối với những khổ đau hay thất bại của kẻ khác
(compassion) đối với những khổ đau hay thất bại của kẻ khác
b.Tràn đầy niềm hoan hỷ với sự thành công hay hạnh phúc
của họ.
của họ.
c. Tràn đầy sự bình thản, tự tại, khinh an trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời .
2. Phát triển Trí tuệ (Wisdom )
đạt được từ những kinh nghiệm trực tiếp của bản thân trong quá trình thực hành. Và chỉ có thực chứng thì mới thật sự thấu hiểu và ứng dụng được trong thực tế; cho nên phải thực hành, thực hành, thực hành (get down to the real practice)!
đạt được từ những kinh nghiệm trực tiếp của bản thân trong quá trình thực hành. Và chỉ có thực chứng thì mới thật sự thấu hiểu và ứng dụng được trong thực tế; cho nên phải thực hành, thực hành, thực hành (get down to the real practice)!
Dĩ nhiên, phải có một phương pháp thực hành cụ thể, rõ ràng, đúng đắn ta mới làm được như trên. Phương pháp thực hành ấy có tên tiếng Anh là Vipassana Meditation - thiền Vipassana, do chính Ðức Phật tìm ra, đích thân mình thực hành theo nó để đạt đến quả vị giác ngộ viên mãn, và sau đó đem chỉ dạy lại rất cặn kẽ cho mọi người. Mang tính cách “phản quan tự kỷ - soi sáng lại chính mình”,
Nhờ Thiền Vipassana giúp cho ta thấu hiểu một cách vô cùng thâm sâu cái thực chất của bản thân ta và của cả toàn thể thế giới, vũ trụ chung quanh. Ai cũng có thể thực tập phương pháp này. Thiền Vipassana không phải là một chủ thuyết xa vời, viển vông hay dị đoan mê tín; nó hoàn toàn mang tính cách khoa học, thực tế và hiệu quả. Nó cũng không bị ràng buộc bởi bất kỳ ranh giới chủng tộc, tôn giáo, đoàn thể…v.v. nào hết.
Phiền não trong cuộc sống là một sự thật không thể phủ nhận, là một chứng bệnh chung của toàn thể nhân loại, cho nên thuốc chữa của nó cũng phải thích hợp, hiệu dụng cho tất cả mọi người. Thiền Vipassana chính là phương thuốc chữa phiền não đó!
Thực tập thiền Vipassana gồm có ba bước, theo trình tự như sau:
A. GIỚI LUẬT:
Ta phải giữ năm điều cấm kỵ: không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không dối trá, không dùng chất nghiện ngập. Ðây là bước cơ bản đầu tiên, cho nên nó chỉ áp dụng trên phương diện HÀNH ÐỘNG mà thôi, chưa liên quan gì đến lãnh vực ý tưởng, tâm niệm; quý vị đừng bị thối chí vì cho là quá khó. Nếu không có 5 giới luật này, tâm trí ta sẽ luôn bị loạn động, không thể nào thực tập được Vipassana.
B.ÐỊNH TĨNH:
Ðịnh tĩnh có nghĩa là vừa có tập trung (concentration), vừa có tỉnh thức (awareness). Ở bước này, ta luyện tập cho tâm trí bớt nghĩ ngợi lung tung và được sáng suốt, nhạy bén hơn, bằng cách tập trung nó toàn bộ vào hơi thở ra vô ở lỗ mũi. Ðây không phải là phương pháp điều hòa hơi thở, mà là quán sát, theo dõi một cách liên tục và sâu sắc cái hơi thở bình thường, tự nhiên của ta, được gọi là phương pháp Anapana (quán niệm hơi thở).
C. TRÍ TUỆ:
Hai bước đầu trên là nền tảng không thể thiếu được và đã mang lại nhiều lợi ích, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì tiềm năng phát triển của ta sẽ bị ngăn chận (self-repression). Cho nên mới có bước thứ ba, và đây chính là tinh hoa của phương pháp Vipassana - sử dụng cái ÐỊNH TĨNH ở bước 2 để theo dõi, quán sát những CẢM GIÁC SINH LÝ trong cơ thể một cách liên tục, sâu sắc và khách quan. Thực hành như thế, ta sẽ đạt được những hiệu quả như đã trình bày ở đoạn trước. Sự quán sát ấy được thực hiện theo một trình tự, hệ thống rất rõ ràng, khoa học và thực tế .
Nếu bạn muốn biết thêm bất kỳ chi tiết nào về Vipassana, chẳng hạn như cách thức ghi danh, lịch trình tu học, địa chỉ các trung tâm thiền…v.v. thì hãy vào
website: http://www.dhamma.org.
Chỉ có 10 ngày thôi tham gia một khóa tu tại bất kỳ trung tâm thiền Vipassàna nào tại Việt Nam cũng như trên khắp thế giới viện nó sẽ mang lại nhiều lợi ích cụ thể cho ta .Sự thiết thực trong đời sống hằng ngày.
Bản thân người viết đã thực tập qua một khóa như thế và cũng gặt hái được rất nhiều bổ ích , và sự trở về với PGNT sẽ là một điều mà mọi người trong chúng ta cần chiêm nghiệm và tự quyết định đâu là chân lý thiết thực trong cuộc sống tâm linh của mọi người chúng ta.
Biên dịch nhân tham dự khóa thiền 2009 tại Thiền Viện Nguyên Thủy Q2
This entry was posted
on 6 tháng 5, 2008
at 02:35
and is filed under
phàp Đàm
. You can follow any responses to this entry through the
comments feed
.